,

Sử dụng tư liệu viễn thám phục vụ kiểm kê khí nhà kính

“Nghiên cứu tính toán hàm lượng phát thải các bon sử dụng tư liệu viễn thám phục vụ việc kiểm kê khí nhà kính. Thực nghiệm ảnh VNREDSat-1 và các nguồn ảnh hiện có tại Việt Nam” - là đề tài nghiên cứu khoa học quan trọng, là cơ sở để xây dựng quy trình công nghệ tính toán hàm lượng phát thải các bon tiêu chuẩn của Ủy ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu sử dụng tư liệu viễn thám phục vụ kiểm kê khí nhà kính vừa được Cục Viễn thám nghiệm thu.

 

Nghiên cứu ứng dụng ảnh Viễn thám là tư liệu “đầu vào”

Theo ông Lê Quốc Hưng, Phó Cục trưởng Cục Viễn thám quốc gia, Chủ nhiệm đề tài, lĩnh vực LULUCF là một trong năm lĩnh vực phát thải được kiểm kê phục vụ các thông báo quốc gia cho UNFCCC và được kỳ vọng giảm phát thải cho việc thực hiện Đóng góp quốc gia tự quyết định (INDC) của Việt Nam. Tuy nhiên, trong những lần kiểm kê trước đây, các số liệu hoạt động đưa vào để tính toán chủ yếu được thu thập từ các nguồn số liệu thống kê. Các số liệu này chưa mang tính liên tục, đầy đủ và hệ thống. Hệ quả là độ tin cậy và tính chính xác của kết quả kiểm kê chưa cao.

Đối với lĩnh vực LULUFC được khuyến cáo sử dụng công nghệ viễn thám đề xây dựng bộ dữ liệu hiện trạng sử dụng đất, lớp phủ bề mặt, bản đồ địa lý theo vùng sinh thái và bản đồ thổ nhưỡng để trích xuất số liệu cập nhật phục vụ cho kiểm kê khí nhà kính. Nhưng đến nay quy trình tính toán phát thải các bon sử dụng đầu vào là tư liệu viễn thám vẫn chưa được xây dựng. Đặc biệt, những tiêu chuẩn kỹ thuật cho bộ dữ liệu LULUCF theo hướng dẫn của IPCC phù hợp với điều kiện của Việt Nam cũng chưa có.  

Từ những yêu cầu của thực tiễn, nhóm nghiên cứu của Cục Viễn thám quốc gia đã triển khai thực hiện đề tài «Nghiên cứu tính toán hàm lượng phát thải các bon sử dụng tư liệu viễn thám phục vụ việc kiểm kê khí nhà kính. Thực nghiệm ảnh VNREDSat-1 và các nguồn ảnh hiện có tại Việt Nam».

Minh họa một mảnh bản đồ phân vùng khí hậu, tỷ lệ 1: 250.000

Tính ứng dụng cao

Đề tài tập trung nghiên cứu sử dụng một số loại ảnh hiện có tại Việt Nam để thử nghiệm tính toán phát thải cho vùng Tây Nguyên với các loại tỷ lệ tương ứng đi kèm các đặc trưng theo tỉnh, theo vùng. Trên cơ sở đó có thể đưa ra quy định dữ liệu đầu vào, quy trình và thực nghiệm phù hợp tính toán phát thải các bon.  

Sau khi triển khai nghiên cứu, đề tài đã đưa ra tổng quan về phát thải KNK và các văn bản quy định kiểm kê KNK phục vụ định hướng nghiên cứu; nghiên cứu được cơ sở khoa học của công nghệ viễn thám trong việc xây dựng dữ liệu tính toán phát thải các bon; phân tích làm sáng tỏ hệ thống phân loại lớp phủ mặt đất bằng dữ liệu ảnh viễn thám, đánh giá khả năng phù hợp cho tính toán phát thải các bon. Đồng thời đề xuất, xây dựng các quy định kỹ thuật của bộ dữ liệu phục vụ tính toán phát thải các bon sử dụng tư liệu viễn thám.

Cùng với đó, trên cơ sở các định hướng, phân tích, kết hợp nghiên cứu các chức năng và cơ chế tính toán của phần mềm tính toán phát thải khí nhà kính ALU, nhóm nghiên cứu đã đề xuất và hoàn thiện được Quy trình ứng dụng công nghệ viễn thám xây dựng dữ liệu phục vụ tính toán phát thải khí các bon sau quá trình thực nghiệm sử dụng nhiều loại dữ liệu ảnh viễn thám với độ phân giải khác nhau.

Đánh giá về kết quả của đề tài, ông Nguyễn Quốc Khánh, Cục trưởng Cục Viễn thám viễn thám khẳng định tính hữu dụng của phương pháp tính toán phát thải khí các-bon sử dụng tư liệu viễn thám với sự minh bạch, đa thời gian, cập nhật thông tin. Đây cũng là cơ sở khoa học quan trọng góp phần đưa ra các định hướng về phương pháp tính toán phát thải các-bon sử dụng công nghệ viễn thám trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, đề tài cũng góp phần nâng cao năng lực các cán bộ của Cục Viễn thám quốc gia, với việc tích lũy thêm kinh nghiệm, kiến thức đồng thời nắm bắt xu hướng mới trong kỹ thuật xử lý ảnh viễn thám.

Ông Hà Quang Anh, Giám đốc Trung tâm Bảo vệ tầng ô-dôn và phát triển kinh tế các-bon thấp cho rằng, sản phẩm của đề tài là công cụ mới cho công tác kiểm soát phát thải khí nhà kính tự nhiên bằng ứng dụng công nghệ số, đây là cải tiến trong công nghệ sẽ mang lại hiệu quả về kinh tế cao, tiết kiệm chi phí, rút ngắn thời gian và sức lực của người lao động. Cùng với đó, đề tài tạo ra những bước tiến lớn về công nghệ, nâng tầm với các nước khác trên thế giới trong lĩnh vực hoạt biến đổi khí hậu.

Theo: http://www.monre.gov.vn/

Tin cùng chuyên mục